Chổi cùn, bút lông vô giá trị
Giáo Hội quả là các thánh và những người tội
lỗi. Năm 1986, tại Đà Lạt Việt Nam, một người trở lại Đạo Công Giáo năm 1949
lúc Việt Nam đang cựa mình thật mạnh trong giấc mơ độc lập của mình, cũng có
cùng một ý nghĩ ấy về Giáo Hội. Đó là ông Nguyễn Khắc Dương, cựu quyền khoa
trưởng khoa văn Đại Học Đà Lạt, tác giả hồi ký Quia Dilexit Humilitatem
Meam (Vì Người Thích Sự Khiêm Nhường Của Tôi). Bỏ ngoài các nhận định
về chính trị, là những nhận định có thể gây tranh cãi, cuốn tự thuật này qúy
giá ở chỗ cho ta cái nhìn rất trung thực của một người, sau khi đã trải qua
nhiều kinh nghiệm tâm linh, cuối cùng đã chọn Thầy Giêsu làm lẽ sống trong lòng
Giáo Hội.
Nguyễn Khắc Dương vốn là em ruột Nguyễn Khắc
Viện, một trong các lý thuyết gia hàng đầu về văn hóa của Cộng Sản Bắc Việt,
nên hồi nhỏ, đương nhiên không thích Đạo Công Giáo. Cũng như nhiều người khác,
cậu tin rằng Đạo này có trách nhiệm dẫn đường cho Pháp cướp nước ta. Đạo này
còn là “tà đạo” dạy những điều mê tín dị đoan, có những lễ nghi kỳ quặc… Người
Công Giáo lại “cứ quây quần trong mấy xứ đạo như tách rời khỏi cộng đồng dân
tộc, do mấy cố đạo chỉ huy, gây ấn tượng làm sao ấy! Thấy người Công Giáo ra
vào lui lủi nơi các toà giải tội, lên “lè lưỡi” rước lễ, rồi trở về mắt nhắm
tay chắp gối quỳ - thật là không tài nào chịu nổi! Và nhìn người Công Giáo nào
cũng có vẻ như bị “bùa mê”, như “mê” một cái gì đó, bị một ma lực nào quyến rũ,
ám ảnh, mê hoặc (possédé, envouté)! Cho nên, chúng tôi - con nhà khoa bảng, học
thức - hơi có vẻ khinh đạo Công Giáo, cho như là một hình thức quyến rũ, mua
chuộc, mê lú, mà các cố đạo đã đánh bả cho một lớp người hạ lưu trong xã hội!
Trong họ vừa có cái gì dễ ghét, vừa có cái gì đáng tội nghiệp như là những
người bị mê hoặc”.
Nhưng cậu ấm con quan này thi hỏng chương trình
Việt vì môn chính tả, nên bà mẹ gửi vào Huế học chương trình Pháp không có môn
chính tả tại tư thục Công Giáo Thiên Hựu. “Vào học trường Thiên Hựu, tôi được
dấn bước vào thế giới Công Giáo, mà dần dần khám phá ra những giá trị của nó”.
Trước hết là sự tận tâm chức nghiệp của các linh mục giáo sư. “Điều thứ hai là
‘tình yêu người’ được bộc lộ ra qua cách đối xử”. Theo Nguyễn Khắc Dương, yêu
khác thương. Khổng Giáo và Phật Giáo đều dạy thương người, thậm chí thương cả
vạn vật nữa, “nhưng ‘yêu’ người thì hình như chỉ có đạo Kitô mới dạy và mới
giúp người ta thực hiện được”. Vì yêu là xem người yêu như “một giá trị duy nhất
vô nhị và không thể thay thế… và như thế là mình được nhìn nhận đúng phẩm giá
làm người của mình, như là một ngã vị, một chủ thể duy nhất, như là được lên
ngôi”. Yêu không hẳn là một đức hạnh (vertu) mà là một tác phong (comportement)
“bắt nguồn từ một cảm thức dựa trên căn bản một nhận thức nào đó về giá trị con
người”.
Nguyễn Khắc Dương cho rằng vị thượng tọa cậu
quen biết, về mặt luân lý, “có lẽ ít linh mục Công Giáo nào sánh kịp”, có thể
“liều chết cứu tôi, nhưng động thái (comportement) của ngài có cái gì lạnh
nhạt. Tôi có cảm tưởng dù thương tôi hết sức, nhưng ngài thương tôi trong cái
đại từ bi vô ngã đối với một chúng sinh vô ngã như bất cứ chúng sinh nào! Và
tôi xin vô lễ (vì tôi rất kính mến ngài) mà cả gan suy diễn rằng có lẽ ngài xót
thương cho cái chấp ngã hiện hữu của tôi, thay vì vui mừng vì hiện hữu của tôi
như một ‘ngã vị’. Và xin thú thật rằng: tôi rất tôn kính Đức Thích Ca, nhưng
mỗi lần chiêm ngưỡng tượng Ngài điềm nhiên trên toà sen, tôi vẫn có cảm tưởng
như vậy. Tôi được chiếu rọi bởi ánh từ bi của Ngài, nhưng không có cảm tưởng
được sưởi ấm cõi lòng bởi lửa yêu mến của Ngài”.
“Sau này tôi mới hiểu rằng cái ấn tượng người
Công Giáo như bị “bùa mê thuốc lú”, bị “thần ám” (possédé), bị “huyễn hoặc”
(envouté) không phải là không có lý do! Bởi vì trong căn bản, người Công Giáo
là kẻ có cảm thức được yêu bởi Thiên Chúa, được yêu một cách khủng khiếp (được
yêu mà cũng có thể nói là bị yêu, vì tình yêu nào cũng có tính cách ràng buộc:
nợ tình) và được mời gọi đáp lại tình yêu như vậy. Có cái gì như kẻ si tình,
chứ không phải bậc Đại Giác, Đại Ngộ như Phật dạy. Si ở đây bắt nguồn từ sự
điên rồ của màu nhiệm Khổ giá (la folie de la croix); và như chữ Thương khó,
khổ nạn (passion) không phải không có âm hưởng của cái gì như là đam mê (cũng
là passion). Sự so sánh các thánh Kitô giáo với các thiền sư, đạo gia, thì một
bên có cái gì da diết, đầy đam mê (passion), một bên thì thanh thản, đầy minh
triết (sagesse)”.
Rồi nhờ học giáo lý, Nguyễn Khắc Dương khám phá
ra Chúa Giêsu. “Cuộc đời của Đức Giêsu trước hết gợi lên lòng thương của tôi
đối với một người vô tội bị oan khiên, sau là sự hấp dẫn của một người dịu
dàng, đơn sơ, bình dị. Có thể nói tình cảm đầu tiên đối với Ngài là lòng thương
mến (có pha trộn một chút tội nghiệp nào đó) hơn là lòng tôn kính đối với một
bậc tôn sư: có một cái gì như tình bạn ít nhiều bình đẳng giữa hai người cùng
hội cùng thuyền. Ấn tượng đầu tiên đối với Ngài có cái gì tương tự như sự an ủi
của mẹ hiền, bạn quí, hàn gắn thương đau, khuyết điểm, khuyến khích về mặt cảm
tính khi chán nản; sưởi ấm cõi lòng khi cô đơn - nhiều hơn là một vị tôn sư dạy
một giáo thuyết”.
Cậu cho rằng “sự hấp dẫn của chúa Giêsu hình như
do chính con người và cuộc đời của Ngài từ việc sinh ra trong máng cỏ, qua 30
năm âm thầm lặng lẽ, ba năm nay đây mai đó, trà trộn với dân chúng, rồi bị giết
oan, nhiều hơn là do đạo lý Ngài truyền dạy. Bởi vì, xét về mặt tâm lý đạo đức
thì các bài dạy của Ngài cũng chẳng có gì là cao siêu tuyệt vời, nhưng điều làm
cho tôi cảm mến Ngài chính là “con người” và “cuộc sống” (gồm cả cái chết của
Ngài): sa “personne” et sa “vie”. Đã có cảm tình với Ngài rồi thì khó quên, khó
phai và hình như càng lâu càng thắm thiết hơn… Đối với các bậc thánh hiền khác,
thì có thể nhớ bài dạy của Ngài mà quên đi con người và cuộc đời của các ngài.
Đối với Đức Giêsu thì khác hẳn: đôi khi quên lời Người dạy, nhưng chính Ngài
thì không quên được. Và có lẽ càng hay sống trái lời Ngài dạy, thì hình ảnh
Ngài lại càng thêm xoáy vào tâm khảm… nhớ quay nhớ quắt, nhớ quằn quại đến độ
không chịu được!... Thông minh, tài trí, dũng cảm... Có lẽ nhiều người hơn
Giêsu, nhưng đáng yêu nhất thì có thể chỉ có duy nhất một mình Ngài mà
thôi!”
Rồi cậu “gặp Pascal”, một thiên tài “cuối cùng
đã vất bỏ tất cả để sống một cuộc đời cống hiến cho Chúa Giêsu! Vì sao? Vì
Pascal đã cảm nghiệm được rằng Giêsu đã yêu Pascal đến chết, Giêsu đã nhỏ những
giọt máu cho Pascal. Và Pascal đã nhìn nhận Giêsu là Thiên Chúa”
Nhưng hình như Đấng Giêsu này đã bị Giáo Hội do
Người sáng lập, ít nhất là cái Giáo Hội trước mắt Nguyễn Khắc Dương, tức Giáo
Hội Việt Nam đang ở lúc trưởng thành, phản bội. Vì cái Giáo Hội này đã biến
“con chiên bổn đạo” thành “một đàn cừu của Panurge!”: khúm núm, khép nép, cúi
đầu “trước một ông Trời làm chúa tể qua trung gian mấy cha cố”, nhất là các cha
cố Tây. Cậu cho rằng “Tin vui cứu chuộc của Giêsu đã bị Giáo Hội biến thành một
thứ bùa mê để thao túng, cầm buộc con người trong một xiềng xích tinh thần, làm
cho con người trở nên ngoan ngoãn, hiền lành, dễ bảo, dễ trị; nhưng thiếu khí
phách, thiếu tự do phóng khoáng - cởi mở - tiến bộ: một dạng “ngu dân” nào
đó!”. Trái ngược “với Giêsu Na-da-rét là người đã có ý muốn nâng cấp cứu vớt
con người, nhất là lớp người thấp hèn, khốn khổ. Tôi hình như mang máng có ý
nghĩ là giáo quyền đã phản ngược lại lý tưởng của Giêsu Na-da-rét”.
Nhưng biến cố 1945 đã quét sạch “cái hình ảnh
Hội Thánh gắn liền với quyền bính… Cái vỏ ‘cố Tây’ được bóc vất đi để lộ nguyên
hình là các vị ‘thừa sai’ của Chúa Kitô, mà đã có thời tỏ rạng qua dáng dấp của
chân phước Théophane Vénard”. Hình ảnh vị “Giám Mục Việt Nam tiên khởi địa phận
Vinh lúc ra Thanh Hóa thụ phong Giám Mục, được gánh đi lủi thủi không tiền hô
hậu ủng, không kèn, không trống âm thầm lặng lẽ phục xuống trước bàn thờ, như
bị đè bẹp dưới cuốn Kinh Thánh đặt trên mình, đã xóa nhòa hình ảnh các vị Giám
Mục áo Vàng áo Tím, oai vệ ngồi trên khán đài danh dự cạnh quan Khâm quan sứ
trong các buổi duyệt binh vào dịp lễ Quốc khánh của nước Bảo Hộ Đại Pháp trước
1945”.
Nguyễn Khắc Dương cho rằng năm 1945 “quả là Năm
Đại Hồng Phúc đối với riêng tôi” làm thay đổi hẳn tương quan của cậu đối với
Giáo Hội. Từ từ, cậu nhận ra “trong một môi trường chịu ảnh hưởng của Chúa
Giêsu Na-da-rét, tương quan liên-ngã-vị (relation intersubjective,
interpersonnelle) cũng đậm đà hơn. Một gia đình, một họ đạo, một cơ sở Kitô
giáo nào cũng mang màu sắc ấy (dù trình độ văn hóa và kể cả trình độ đạo đức cá
nhân có thể là thấp)”. Bầu không khí của cộng đoàn Công Giáo luôn “có cái gì
thân hữu, đầm ấm”. Dù có thể lắm lúc xảy ra cãi cọ tranh chấp, “nhưng vẫn là có
nhau - nghĩa là dù tốt hay xấu đều có nhau, đều có tương quan liên- ngã-vị, hữu
ngã và hữu tha trong cái với nhau”. Cậu cho rằng “cái tương quan liên-ngã-vị
quan trọng như vậy là vì từ trong nguồn gốc của mỗi hữu thể, tức là trong Mầu
Nhiệm Thiên Chúa tương quan lập hữu giữa Ba Ngôi (Cha, Con và Thần Khí) không
phải là một tùy thể thêm vào một hữu thể nòng cốt; nhưng chính là “bản tính”
của hữu thể. Nơi con người cái tương quan là cha, là con, là thầy, là trò chỉ
là một chuyện phụ thuộc, có vất bỏ đi vẫn còn có con người. Còn nơi Thiên Chúa:
Chúa Cha chỉ là Cha thôi, nếu không là Cha thì không còn gì nữa, cho nên chính
cái tương quan ấy (Cha, Con, Thần Khí...) là bản tính của Hữu thể”.
Từ đó, cậu luôn tìm về với một gia đình, một cộng đoàn Công Giáo để tìm ra cái tương quan liên ngã vị này. Rất may, sau khi đậu tú tài 2 năm 1946, cậu có dịp được dạy Việt Văn tại Trung Học Đậu Quang Lĩnh tại Vinh. “Được trở về sống trong cái khí quyển mà tôi đã hấp thụ sáu năm tại trường Thiên Hựu, tôi như một ngọn cây đang bị héo rũ, bỗng được tưới mát hồi sinh… Dần dần, tôi mới khám phá ra rằng chỉ có môi trường Công Giáo mới hợp với con người tôi, và có lẽ tôi chỉ sống được trong môi trường ấy mà thôi”. Vì sau Cách Mạng Tháng Tám, chỉ “tại các xóm đạo, trong các gia đình Công Giáo thì tôi cảm thấy như sinh khí vẫn dồi dào, tương quan vẫn có cái gì đằm thắm sâu xa mật thiết, đầy sinh khí tuy có vẻ thầm lặng kín đáo nhưng vẫn vui tươi ấm áp. Nhất là những giờ kinh sáng tối trong gia đình hoặc tại nhà thờ tuy chưa có đức tin tôi vẫn cảm thấy như mình là cây được cắm vào lòng đất có nhựa sống, được bao bọc và sưởi ấm bởi tình người trong tương quan liên-ngã-vị. Có lẽ tôi đã cảm nghiệm mầu nhiệm các Thánh thông công trong sinh hoạt của Hội Thánh Công Giáo trước rồi sau mới phát giác ra rằng: mối dây của sự thông công ấy là Chúa Giêsu mà ngôi thánh đường có nhà tạm, nơi Chúa ngự, có đèn thắp sáng là trung tâm và vị linh mục, Giám mục là đại diện và thừa tác viên... Mỗi giáo xứ, mỗi Cộng đoàn Công Giáo quả là một gia đình! Bếp lửa, mỗi tổ ấm ấm cúng, có lò lửa sưởi ấm là Chúa Giêsu, mà Thánh Thể là bí tích về sự hiện diện, tuy vô hình nhưng thực sự của Ngài, vị tư tế là đại diện và thừa tác viên, các tín hữu là anh chị em, là con chung của Cha trên trời. Và trong tổ ấm ấy, đời sống cộng đoàn (communauté) chứ không phải tập thể (collectivité) vẫn không làm giảm tương quan liên-ngã-vị cá thể: vì mọi tín hữu đều có tương quan riêng duy nhất, trực tiếp với Chúa Giêsu trong một sự kín nhiệm mà không một người thứ ba nào có quyền xâm lược bằng bạo lực hay âm mưu xảo trá”.
Từ đó, cậu luôn tìm về với một gia đình, một cộng đoàn Công Giáo để tìm ra cái tương quan liên ngã vị này. Rất may, sau khi đậu tú tài 2 năm 1946, cậu có dịp được dạy Việt Văn tại Trung Học Đậu Quang Lĩnh tại Vinh. “Được trở về sống trong cái khí quyển mà tôi đã hấp thụ sáu năm tại trường Thiên Hựu, tôi như một ngọn cây đang bị héo rũ, bỗng được tưới mát hồi sinh… Dần dần, tôi mới khám phá ra rằng chỉ có môi trường Công Giáo mới hợp với con người tôi, và có lẽ tôi chỉ sống được trong môi trường ấy mà thôi”. Vì sau Cách Mạng Tháng Tám, chỉ “tại các xóm đạo, trong các gia đình Công Giáo thì tôi cảm thấy như sinh khí vẫn dồi dào, tương quan vẫn có cái gì đằm thắm sâu xa mật thiết, đầy sinh khí tuy có vẻ thầm lặng kín đáo nhưng vẫn vui tươi ấm áp. Nhất là những giờ kinh sáng tối trong gia đình hoặc tại nhà thờ tuy chưa có đức tin tôi vẫn cảm thấy như mình là cây được cắm vào lòng đất có nhựa sống, được bao bọc và sưởi ấm bởi tình người trong tương quan liên-ngã-vị. Có lẽ tôi đã cảm nghiệm mầu nhiệm các Thánh thông công trong sinh hoạt của Hội Thánh Công Giáo trước rồi sau mới phát giác ra rằng: mối dây của sự thông công ấy là Chúa Giêsu mà ngôi thánh đường có nhà tạm, nơi Chúa ngự, có đèn thắp sáng là trung tâm và vị linh mục, Giám mục là đại diện và thừa tác viên... Mỗi giáo xứ, mỗi Cộng đoàn Công Giáo quả là một gia đình! Bếp lửa, mỗi tổ ấm ấm cúng, có lò lửa sưởi ấm là Chúa Giêsu, mà Thánh Thể là bí tích về sự hiện diện, tuy vô hình nhưng thực sự của Ngài, vị tư tế là đại diện và thừa tác viên, các tín hữu là anh chị em, là con chung của Cha trên trời. Và trong tổ ấm ấy, đời sống cộng đoàn (communauté) chứ không phải tập thể (collectivité) vẫn không làm giảm tương quan liên-ngã-vị cá thể: vì mọi tín hữu đều có tương quan riêng duy nhất, trực tiếp với Chúa Giêsu trong một sự kín nhiệm mà không một người thứ ba nào có quyền xâm lược bằng bạo lực hay âm mưu xảo trá”.
Ngoài ra, “tôi nghĩ rằng vấn đề căng thẳng giữa
cá nhân và đoàn thể, chỉ có cộng đoàn Công Giáo là giải quyết tuyệt vời. Sau
này tôi mới biết rằng là nhờ phạm trù nhiệm thể và chi thể Đức Kitô mà vấn đề
được giải quyết mỹ mãn đến mức độ tối đa… Hầu như tổng hợp rất nhuần nhuyễn
tính cách quân chủ và dân chủ”.
Tuy nhiên, nếu chỉ xét ở bình diện con người,
thì người và cộng đoàn Công Giáo Việt Nam chỉ mới ở mức độ rất bình thường, đôi
khi còn kém thua người khác. Nói chung, họ thiếu khí phách hiên ngang so với
mẫu người Nho Giáo. Nhưng “điều đáng lưu ý nhất nơi những cá nhân và Cộng đoàn
Công Giáo nằm ở chỗ họ đang làm chứng một cách nào đó về một cái gì rất kỳ lạ,
nói đúng hơn, về một con người: Đức Giêsu người Na-da-rét, còn gọi là Đức Kitô…
Thực ra từ bản chất, không phải chính họ chủ động trong sự làm chứng ấy bằng nỗ
lực nêu gương sáng, nhưng chính là Đức Kitô đã dùng họ mà tỏ mình ra cho dù họ
là những người rất tầm thường, và đôi khi còn tệ hơn nữa là khác! Nói theo
tiếng chuyên môn thần học, người Công Giáo cá nhân cũng như tập thể, đều là 'bí
tích của Đức Kitô', là sự hiện diện và tác động của Đức Kitô trong hiện tại và
ở nơi này (hic et nunc) chứ không phải họ chỉ loan truyền một tin vui xảy ra
trong quá khứ cách 2000 năm về trước ở Thánh Địa xa xôi. Họ gần như là bí tích
Thánh Thể vậy! Cũng như lúa mì thuộc hạng tốt hay xấu vậy, bột mì dùng làm bánh
Thánh có loại thơm loại không thơm, loại thô, loại mịn, loại trắng, loại hẩm,
nhưng khi đã được vị tư tế đọc lời truyền phép dưới tác động của Chúa Thánh
Thần đều trở nên Thánh Thể cả, cũng đều có Chúa Kitô hiện diện thực sự…”
Giáo Hội, vì thế, theo Nguyễn Khắc Dương “chỉ là
chứng tích và là dấu chỉ” qua đó, cậu “tiếp cận được với một người đang hiện
diện và tác động ‘hic et nunc’: Đức Giêsu Kitô”. Cái Giáo Hội này cũng có nhiều
nét tiêu cực, không hẳn “đạo đức tài trí vượt bực! Thế nhưng, cái Giáo Hội này
đã "giúp tôi thấy sự hiện diện và tác động của Đức Kitô gần như là còn sống,
sống giữa, sống trong Hội Thánh ấy! Và tôi thấy rằng những sai lầm thiếu sót
của Hội Thánh, của các Giáo Hoàng, Giám Mục, Linh Mục, Tu Sĩ, Giáo dân suốt
2000 năm lịch sử Tây Phương và gần 100 năm chủ nghĩa thực dân, những sai lầm
thiếu sót mà trước đó đã làm cho tôi nghĩ rằng Hội Thánh đã phản ngược lại lý
tưởng nguyên thủy của đạo Tin Mừng, thì nay tôi bỗng nhận thấy rằng: Hội Thánh
Công Giáo không phải là một cộng đoàn lý tưởng gồm những kẻ tài cao đức trọng,
đã thể hiện được một đạo sống theo một giáo thuyết cao siêu thâm thúy gì cả!
Hội thánh chỉ là một số người đủ loại, y như số người hành khất tật nguyền dơ
bẩn lê lết bên vệ đường, bỗng được gọi vào dự tiệc cưới mà Chúa Giêsu có nhắc
đến trong bài dụ ngôn mô tả Nước Trời. Họ được Ngài gọi, được Ngài chọn để sai
đi làm chứng và mang sự hiện diện tác động của Ngài theo họ, tất cả do Ngài chứ
không phải do giá trị cá nhân của họ gì cả. Borgia đã làm Giáo Hoàng, Richelieu
làm Hồng Y. Cauchon làm Giám mục thì nếu có một ông Linh mục Tây nào đó, có thể
đã nộp một Linh mục Việt Nam tham gia cách mạng cho mật thám Pháp, thì cũng
thường tình. Ở thế kỷ thứ 19, một người Tây Âu mà không có óc thực dân thì phải
là bậc Đại Trí, Đại Thánh! Người mà Đức Giêsu chọn là bọn thu thuế sài lang, có
khi là đĩ điếm, trộm cướp còn đầy thành kiến, ganh tị, nhỏ nhen, ngớ ngẩn, sai
lầm đủ thứ… Thế nhưng, tất cả chỉ làm một việc này: làm chứng về Đức Giêsu, làm
cho người ta thấy Đức Giêsu hiện diện và tác động qua họ. Các môn đệ của Đức
Giêsu như lời Bernadette ở Lộ Đức “đều là cái chổi cùn Chúa muốn dùng, dùng
xong thì xếp xó” hay như chính Tê-rê-sa Hài Đồng nói: “tất cả đều là ngọn bút
lông vô giá trị trong tay một nghệ sĩ tài tình!” Và như vậy thì nói hơi quá cho
dễ hiểu: chổi càng cùn, bút lông càng xoàng lại càng chứng tỏ có sự hiện diện
và tác động của Chúa. Hội thánh Công Giáo không những với tất cả những gì là
nhân loại tính tầm thường (lắm lúc còn ghê rợn: như các giàn hỏa thiêu) của nó
mà đôi khi xét trên một phương diện nào đó, chính nhờ sự tầm thường ấy mà nó là
dấu chỉ, làm chứng cho sự hiện diện và tác động của Chúa Giêsu. Alexandre,
César, Hán Cao Tổ, Thành Cát Tư Hãn, Napoléon… các thánh nhân và hiền triết dù
vĩ đại đến đâu, đều là những người đã chết; còn Giêsu người Na-da-rét thì đang
sống vì đang hiện diện và tác động. Hội thánh Công Giáo cũng chỉ là nhóm người
đủ loại như bất cứ nhóm người nào, chỉ khác ở chỗ là cho thấy được Đức Giêsu
đang còn sống, hoạt động giữa trần gian mọi ngày, mọi giây, mọi phút, ở mọi nơi
và sẽ như vậy cho đến tận thế”.
Nguyễn Khắc Dương xác tín rằng: không thể tách
Giáo Hội khỏi Chúa Giêsu, như tách rời một tổ chức với người sáng lập ra nó. Vì
“không có Thầy các con chẳng làm nên trò trống gì”.
Sưu Tầm Tại ViệtCatholic News
Vũ Văn An 11/01/2014